Trang chủ / Tin tức / Dự phòng, điều trị sớm HIV cho thấy là hứa hẹn

Dự phòng, điều trị sớm HIV cho thấy là hứa hẹn

01/08/2012 16:13     10,912      12,543     

Ngày 28 tháng 5 năm 2012 - Mặc dù điều trị cho những bị phơi nhiễm với HIV ngay sau phơi nhiễm là rất quan trọng, cung cấp điều trị cho một số người đặc biệt có nguy cơ cao trước khi phơi nhiễm một cách tiềm năng thậm chí là một phương pháp mới hơn đang cho thấy là có triển vọng, theo một bài điểm báo (review) tập trung vào các chiến lược phòng ngừa nhiễm HIV trong các tình huống không do nghề nghiệp, được công bố trên số báo ra tháng Sáu của Tạp chí Hiệp hội Y tế Canada (Canadian Medical Association Journal).

 

"Mặc dù dự phòng sau phơi nhiễm có một lịch sử thành công dài, các phương pháp mới hơn như dự phòng trước khi phơi nhiễm và điều trị sớm hơn trong quá trình nhiễm virus(‘điều trị là phòng ngừa’) đang được thực hiện với một số thành công," bác sĩ Isaac Bogoch, cán bộ thuộc Phân môn bệnh truyền nhiễm, Trung tâm Khoa học Y tế Sunnybrook, Toronto, Ontario, Canada; và Phân môn bệnh truyền nhiễm, Bệnh viện đa khoa Massachusetts, và trường Y khoa Harvard, Boston, Massachusetts, và các đồng nghiệp đã viết như thế.

 Trong những năm qua, một số thử nghiệm ngẫu nhiên lớn đã được thực hiện, và kết quả của các nghiên cứu đã bổ sung đáng kể với những gì được biết đến về hiệu quả điều trị trước và sau phơi nhiễm.

Để giúp làm sáng tỏ những phát hiện này, nhóm các nhà nghiên cứu này đã tiến hànhmột điểm lại các tài liệu y văn về những chủ đề đó từ tháng 1/1990 đến tháng 4/2012.

Các tác giả nói rằng họ đã chọn lựa các thử nghiệm với mức độ bằng chứng cao nhấtđối với mỗi chủ đề đang được xem xét. Khi không gặp các thử nghiệm đối chứng sẵncó, thì họ dựa lên các nghiên cứu quan sát.

Dự phòng sau phơi nhiễm

Trước tiên, theo bài điểm báo này, các tác giả nói rằng bằng chứng đối với dự phòngsau phơi nhiễm không do nghề nghiệp bị giới hạn với chỉ một nghiên cứu bệnh – chứng và một ít nghiên cứu thuần tập quan sát.

Bằng chứng sớm nhất được suy luận từ một nghiên cứu bệnh – chứng hồi cứu về nhân viên y tế đã từng bị phơi nhiễm với HIV thông qua tổn thương qua da trong khi làm việc của họ (N Engl J Med. 1997; 337:1485-1490). Trong nghiên cứu đó, giảm 81% trong chuyển đổi huyết thanh HIV đã được gặp bằng cách sử dụng đơn trị liệu zidovudine (tỉ số chênh [OR] 0,19; 95% CI, 0,06 - 0,52).

Từ nghiên cứu đó, một số nghiên cứu quan sát đã được tiến hành. Một nghiên cứu (ClinInfect Dis. 2005; 41:1507-1513) đã có tư liệu 7 người chuyển đổi huyết thanh trong số 702 người (1,0%, 95% CI, 0,4 - 2) có nguy cơ phơi nhiễm cao (thường giao hợp qua đường hậu môn không được bảo vệ giữa những người đàn ông với nhau). Tình trạng HIV của họ được đánh giá 12 tuần sau khi được dùng một phác đồ kháng retrovirus bắt đầu trong vòng 72 giờ phơi nhiễm của họ. Tất cả những người đàn ông chuyển đổi huyết thanh đã tham gia giao hợp qua đường hậu môn.

Các tác giả nói rằng dường như một số chế độ thuốc dùng sau phơi nhiễm được dung nạp tốt hơn những chế độ thuốc khác, và do đó bệnh nhân có thể có nhiều khả năng để hoàn thành quá trình điều trị với các thuốc đó.

Ví dụ, các tác giả này viết, 1 nghiên cứu mà đã dùng các kiểm soát lịch sử đã tìm thấy rằng nhiều bệnh nhân đã hoàn thành có ý nghĩa một quá trình điều trị 28 ngày sau phơi nhiễm với thuốc tenofovir, hơn là zidovudine, hầu hết là vì tenofovir có tác dụng ngoại ý ít hơn (J Acquir Immune Defic Syndr. 2008; 47:494-499).

Các tác giả lưu ý rằng theo như việc điểm báo của họ, điều trị sau phơi nhiễm nên được bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi phơi nhiễm và tiếp tục trong 28 ngày, và rằng liệu pháp đó phải được cung cấp cho bất cứ ai đã tham gia vào các hành vi nguy cơ cao như dùng chung kim bơm tiêm hoặc có quan hệ tình dục không an toàn với một người được biết là bị nhiễm HIV.

Các tác giả lưu ý, sự lựa chọn dùng các loại thuốc nào để sử dụng dự phòng sau phơi nhiễm khác nhau tùy theo nguy cơ phơi nhiễm. Thường kết hợp 2 hoặc 3 thuốc, với phác đồ 3 thuốc được khuyến cáo đối với bệnh nhân phơi nhiễm có nguy cơ cao nhất; ví dụ, giao hợp qua đường hậu môn dễ tiếp thu hoặc phơi nhiễm với niêm mạc khác đối với những người với tải lượng virus có thể phát hiện được. (nghĩa là tải lượng virus cao).

Các tác giả nói, về mặt lý thuyết, tất cả các lớp thuốc kháng retrovirus có thể được sử dụng để dự phòng sau phơi nhiễm, nhưng trong thực hành hàng ngày, một số thuốc thì không thực tế để sử dụng tiềm năng các tác dụng ngoại ý của chúng. Những thuốc đo là nevirapine, abacavir, và efavirenz.

Thuốc kháng retrovirus thường được sử dụng hơn gồm phác đồ 2 thuốc tenofovir phối hợp với emtricitabine. Các tác giả nói, nếu thêm vào một thuốc thứ ba, 1 trong số các thuốc ức chế protease là lopinavir, atazanavir, hoặc darunavir, tất cả thuốc đó có thể được ritonavir tăng cường, có thể là những thuốc tốt để lựa chọn.

Một khi đã bắt đầu điều trị, bệnh nhân nên được theo dõi 2 tuần sau đó với các xét nghiệm máu để kiểm tra nhiễm độc đối với thận hoặc với gan, và cần được sàng lọc về sự chuyển đổi huyết thanh HIV vào lúc bắt đầu dùng thuốc, tuần thứ 6, 12, và tháng thứ6.

Dự phòng trước phơi nhiễm

Các tác giả lưu ý, đã có một số thử nghiệm lớn gần đây đối với việc dự phòng trước phơi nhiễm, một số trong đó đang cho thấy sự thành công đáng kể trong việc phòng ngừa lây nhiễm HIV.

Trước tiên, được công bố năm 2010 (N Engl J Med. 2010; 363:2587-2599), là một nghiên cứu ngẫu nhiên, thuốc - placebo, mù đôi được thực hiện ở gần 900 phụ nữ trong một khu vực với tỷ lệ hiện mắc HIV cao ở châu Phi, những phụ nữ đó đã sử dụng một chất diệt vi sinh vật đặt ở âm đạo không quá 12 giờ trước khi quan hệ tình dục và một lần nữa trong vòng 12 giờ sau.

Phương pháp đó được cho thấy là 39% đạt hiệu quả trong việc phòng ngừa lây nhiễm HIV. Tỷ lệ mới mắc ở nhóm điều trị là 5,6/100 phụ nữ - năm (95% CI, 4-7,7). Trong số phụ nữ sử dụng placebo, tỷ lệ mới mắc là 9,1/100 phụ nữ - năm (95% CI, 6,9 - 11,7). Phụ nữ đã báo cáo sự tuân thủ mức độ cao hơn đối với việc điều trị cũng ít có nguy cơ bị nhiễm HIV.

Trong một nghiên cứu khác (Nghiên cứu Đánh giá vai trò của Truvada trong Phòng mắc phải  HIV ở phụ nữ), 1 thử nghiệm quốc tế mà được ngẫu nhiên hóa và placebo – thuốc, các nhà nghiên cứu đã theo dõi 2.499 nam đồng tính hoặc nam sinh hoạt tình dục cả hai giới và phụ nữ chuyển đổi giới tính (transgender women) đối với 3.324 người-năm vàđã tìm thấy rằng dùng thuốc trước phơi nhiễm một lần mỗi ngày với emtricitabine phối hợp với tenofovir dẫn đến một sự giảm tương đối 44% (95% CI, 15% - 63%) trong lây nhiễm HIV. Một lần nữa, các cá nhân đã báo cáo tỷ lệ tuân thủ điều trị cao nhất đã chứng minh nguy cơ ít nhất đối với chuyển đổi huyết thanh HIV.

Các tác giả nói, trong thực tế, những người tham gia nghiên cứu đã báo cáo là dùngthuốc của họ hơn 90% thời gian đã cho thấy một sự giảm 73% nguy cơ (95% CI, 41% - 88%).

Kết quả trong một thử nghiệm khác mà sử dụng cùng chế độ 2 thuốc đang ít khuyếnkhích. Trong nghiên cứu đó, không thấy có sự khác biệt đáng kể trong tỷ lệ lây nhiễm. Các nhà điều tra đang tiếp tục xem xét lý do tại sao các kết quả khác với nghiên cứu trước đó.

Câu hỏi chưa được trả lời

Các tác giả của nghiên cứu này lưu ý rằng một số câu hỏi chưa được trả lời vẫn còn liên quan đến dự phòng trước phơi nhiễm. Trong số đó là những nhóm nguy cơ nào sẽ đạt được lợi ích nhiều nhất từ ​​phương pháp đó, hiệu quả tương đối của điều trị liên tục so với phòng ngừa ngắt quảng, và liệu rằng sự đề kháng thuốc cuối cùng sẽ phát triển ở những người được điều trị dự phòng.

Họ kết luận việc điểm lại y văn của họ bằng cách nhấn mạnh rằng có lẽ phương pháp tốt nhất với việc bắt nguồn sự lây lan HIV là có hiệu quả để điều trị những người đã bị nhiễm HIV rồi, vì điều trị kháng retrovirus làm giảm nồng độ virus trong máu và dịch tiết sinh dục.

 

Tài liệu tham khảo

Steven Fox. CMAJ. 2012. Prophylaxis, Early Treatment of HIV Show Promise. Medscape Today.http://www.medscape.com/viewarticle/764627

BS. Phan Quận- Văn phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam

Facebook a Comment