Trang chủ / Tin tức / Các thông số lâm sàng, nhân khẩu học, cận lâm sàng vào lúc bắt đầu dùng thuốc kháng retrovirus kết hợp với giảm sống sót sau dùng thuốc ở một nghiên cứu hiv đoàn hệ tiến cứu

Các thông số lâm sàng, nhân khẩu học, cận lâm sàng vào lúc bắt đầu dùng thuốc kháng retrovirus kết hợp với giảm sống sót sau dùng thuốc ở một nghiên cứu hiv đoàn hệ tiến cứu

31/07/2012 09:56     3,187      5,238     

Bối cảnh: Mặc dù trị liệu với thuốc kháng retrovirus hoạt tính cao (HAART) đã được cải thiện sự sống sót đối với người nhiễm HIV, một số bệnh nhân được điều trị vẫn còn tử vong. Phân tích này đã được tiến hành nhằm xác định các yếu tố liên quan với tăng nguy cơ tỷ lệ tử vong sau HAART 

 

Phương pháp:

Chúng tôi đã đánh giá các thông số đầu vào (trước khi bắt đầu HAART) gồm các yếu tố lâm sàng, nhân khẩu học và cận lâm sàng (gồm cả số lượng T CD4+ và tải lượng HIV RNA) về những kết hợp với tỷ lệ tử vong sau đó ở 1.600 bệnh nhân đã bắt đầu HAART trong một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu quan sát ở nhân viên quân sự Mỹ bị nhiễm HIV.

Kết quả:

Tỷ lệ tử vong tích lũy là 5%, 10% và 18% tại 4, 8 và 12 năm sau HAART. Tỷ lệ tử vong cao nhất (6,23 chết/100 người-năm) ở những bệnh nhân với tế bào CD4+ ≤ 50/mm3 trước khi bắt đầu HAART, và đã tiến triển dần dần trở nên thấp hơn khi lượng tế bào T CD4+ tăng lên (0,70chết/100 người - năm với tế bào CD4+ ≥ 500/mm3). Trong phân tích đa biến, các yếu tố liên quan có ý nghĩa (p < 0,05) với tỷ lệ tử vong sau HAART gồm: tuổi ngày càng tăng trong số những người ≥ 40 tuổi (tỷ số nguy cơ [HR] = 1,32/tăng mỗi 5 năm), các biến cố AIDS trên lâm sàng trước HAART (HR = 1,93), lượng tế bào T CD4+ ≤ 50 tế bào/mm3 (so với CD4+ ≥ 500/mm3, HR = 2,97), tải lượng HIV RNA lớn hơn (HR = 1,36/tăng mỗi log10), kháng thể viêm gan C hoặc viêm gan B mãn tính (HR = 1,96), và chẩn đoán HIV trước khi năm 1996 (HR = 2,44). Lượng tế bào T CD4+ ngay trước bắt đầu dùng HAART = 51 - 200 tế bào (HR = 1,74, p = 0.06), và hemoglobin < 12 gm/dL đối với phụ nữ hoặc < 13,5 đối với nam giới (HR = 1,36, p = 0,07) là giới hạn có ý nghĩa.

Kết luận:

Mặc dù việc điều trị bằng thuốc đã cải thiện sự sống còn của người nhiễm HIV, xác định những người có nguy cơ lớn nhất bị chết sau bắt đầu dùng HAART, gồm nhân khẩu học, lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng tương quan với những tiên lượng xấu hơn, có thể giúp xác định một tiểu nhóm bệnh nhân, những người mà cần giám sát, tư vấn, can thiệp chăm sóc chuyên sâu hơn có thể cải thiện các kết cục lâm sàng và tỷ lệ sống sót sau dùng HAART.

Tài liệu tham khảo

(Alan R Lifson, Elizabeth M Krantz, Patricia L Grambsch, Grace E Macalino, Nancy F Crum-Cianflone, Anuradha Ganesan, Jason F Okulicz, Anne Eaton, John H Powers, Lynn E Eberly, Brian K Agan. (2012) Clinical, Demographic and Laboratory Parameters at HAART Initiation Associated with Decreased Post-HAART Survival in a U.S. Military Prospective HIV Cohort. AIDS Research and Therapy 2012, 9:4 doi:10.1186/1742-6405-9-4)

Bs. Phan Quận

Facebook a Comment
Các tin khác:
Sự kết hợp giữa nồng độ 25 – hydroxyvitamin d huyết thanh và nhiễm trùng đường hô hấp trên trong cuộc điều tra y tế và kiểm tra dinh dưỡng thứ ba Những tương tác đáng ngạc nhiên giữa đái tháo đường và nhiễm trùng toàn thân Đơn nhiễm hiv liên kết với tăng chỉ số của tỷ số aspartate aminotransferase với tiểu cầu, một marker thay thế chỉ điểm xơ hóa gan Lệnh cấm với cái được gọi là nghiên cứu khoa học về cúm gia cầm h5n1 tử vong cao Sử dụng chất hoạt hóa plasminogen mô và dnase trong nhiễm màng phổi Đánh giá các đột biến vùng xác định đề kháng quinolone và sự biểu thị bơm lệch dòng kháng sinh ở neisseria meningitidis kháng với các fluoroquinolone Tế bào T CD4 đẩy mạnh miễn dịch tế bào T CD8 tại vị trí khởi động và vị trí ảnh hưởng suốt quá trình viêm não do virus Hiệu quả của một công thức thuốc mới của oseltamivir (enfluvir) lên các virus cúm mùa năm 2010-2011: Một nghiên cứu mở giai đoạn 4 Các vắc xin MELIOIDOSIS: một điểm báo hệ thống và đánh giá về tiềm năng để phát triển các vắc xin phòng ngừa khủng bố sinh học đối với các mục đích y tế công cộng Viêm màng não mắc phải tại cộng đồng lần đầu tiên do E. COLI tạo ESBL gây biến chứng với nhiều nơi phồng động mạch do nấm