Trang chủ / Tin tức / Các khuynh hướng trong các đột biến kết hợp với kháng thuốc của enzyme sao chép ngược trong HIV-1 và các dữ liệu kê đơn thuốc kháng virus từ 2003 – 2010

Các khuynh hướng trong các đột biến kết hợp với kháng thuốc của enzyme sao chép ngược trong HIV-1 và các dữ liệu kê đơn thuốc kháng virus từ 2003 – 2010

14/10/2012 23:47     11,016      12,922     

 Vấn đề nghiên cứu: Sự chọn lựa thuốc kháng virus sao chép ngược (ARV) để điều trị nhiễm HIV-1 được dựa lên vài yếu tố gồm hiệu lực thuốc (potency), độc tính, sự đề kháng và dùng dễ dàng. Emtricitabine (FTC) hoặc lamivudine (3TC), các thành phần thuốc của các chế độ thuốc ARV được khuyến cáo bắt đầu, là liên quan tới cấu trúc và có chung cùng đột biến đề kháng (M184V/I). Tuy nhiên, chúng khác biệt đối với hiệu lực thuốc và tỷ lệ mới đột biến đề kháng của M184V/I. 

 

Phương pháp: Dữ liệu về tỷ lệ hiện mắc đột biến kết hợp với đề kháng (Resistance-associated mutation: RAM) đã đạt được từ các kết quả test kiểu gene đã được thực hiện trong một phòng xét nghiệm qui chiếu lớn từ 2003-2010; các tiểu tập hợp về dữ liệu đã được xác định bằng mẫu hình đột biến để tương đồng với các dữ liệu sau sự thất bại của điều trị phối hợp được dựa lên thuốc không phải nucleoside ức chế enzyme sao chép ngược (NNRTI). Dữ liệu khuynh hướng đột biến đã được so sánh với thông tin kê đơn ARV cùng thời.

Kết quả: Trong tập hợp dữ liệu chưa được lọc (n=107.231), tỷ lệ hiện mắc trong năm 2010 đã giảm xuống so với năm 2003 về tất cả tỷ lệ hiện mắc các đột biến đề kháng thuốc nucleoside/nucleotide ức chế enzyme sao chép ngược (NRTI – RAMs), chẳng hạn như M184V/I (44,0% với 17,9%), T215Y (22,7% với 4,1%), và K65R (4,3% với 2,1%). Trong số các mẫu tương tự với các mẫu thất bại thuốc hàng đầu dựa lên NNRTI, tỷ lệ hiện mắc về K103N đã tăng nhẹ increased slightly, nhưng tỷ lệ hiện mắc của M184V/I đã giảm xuống (49,8% với 36,8%), như đã đối với các đột biến đề kháng đối với các thuốc nucleoside (NRTI RAMs). Những sự giảm này đã trùng hợp với một sự chuyển đổi trong các đơn thuốc không dùng zidovudine và 3TC hướng tới dùng tenofovir và FTC, và một sự tăng lên việc dùng các phối hợp thuốc liều cố định.

Kết luận: Tỷ lệ hiện mắc đột biến đề kháng đã giảm một cách đáng kể từ năm 2003 trong số các mẫu đã đưa ra xem xét đối với việc thử nghiệm đề kháng ở Hoa Kỳ. Các nguyên nhân của sự giảm này là đa yếu tố, nhưng những kết quả của chúng tôi gợi ý một vai trò có thể là việc dùng các thuốc ARV hiệu lực cao đã tăng lên, những thuốc phối hợp với liều cố định sẵn có hoặc như là chế độ thuốc viên riêng rẽ.

 


Tài liệu tham khảo

Miller MD, Haddad M, Su C, Gibbs C, McColl DJ, Guyer B.(2012). Trends in HIV-1 reverse transcriptase resistance-associated mutations and antiretroviral prescription data from 2003-2010. Antiviral Therapy (Jul 2012


Bs Phan Quận – Văn Phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam

Facebook a Comment
Các tin khác:
Phối hợp kép raltegravir/etravirine để ức chế virus ở bệnh nhân nhiễm HIV-1 đang được trị liệu kháng virus sao chép ngược Tính chất mềm dẽo của khoảng cách giữa các lần chủng ngừa với vaccine cúm A/H1N1 năm 2009 có tá dược AS03X ở người lớn tuổi 18 – 60 và > 60 tuổi: một thử nghiệm ngẫu nhiên Theo dõi về Yoga của sự chú ý về đau do u xơ cơ (fibromyalgia): kết quả sau 3 tháng điều trị và sự nhân lên ở nhóm danh mục chờ đợi điều trị Dùng sự chuyển động đốt sống bằng lập trình vi tính để điều trị đau cột sống cổ mãn tính Sự mất khả năng ở bệnh nhân đau vùng cổ mãn tính: Phân tích sự biến thiên nhịp tim và phân tích cụm Sự lo âu và gây tai biến trước phẩu thuật: một điểm báo tổng thể và phân tích gộp về sự kết hợp với đau mãn tính sau phẩu thuật Sự tuân thủ và duy trì dùng thuốc chống trầm cảm so với thuốc chống động kinh ở bệnh nhân mắc chứng đau do thần kinh trong năm đầu điều trị Sự thỏa mãn của cha mẹ với việc điều trị đau cấp cho trẻ tại nhà Công thức gabapentin lưu giữ tại dạ dày (G-GR) làm giảm cường độ đau liên quan đến đau thần kinh sau khi khỏi herpes (PHN) Hiệu quả dùng các hạt amino acid chuỗi bên vào ban đêm để cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân xơ gan