Vấn đề nghiên cứu: Dùng kháng sinh theo hướng dẫn đã khuyến cáo có hoạt tính chống tụ cầu vàng kháng methicillin (MRSA) và Pseudomonas aeruginosa để điều trị viêm phổi do chăm sóc y tế (HCAP). Liệu cách điều trị này có cải thiện được kết cục bệnh nhân viêm phổi liên quan đến chăm sóc y tế hay không là điều chưa được rõ.
Mục tiêu: Để xác định liệu việc dùng cách điều trị tương tự như hướng dẫn có kết hợp được với việc giảm tỷ lệ tử vong trong 30 ngày đối với viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khỏe hay không.
Thiết kế: Nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm
Người tham gia: Gồm 1.311 bệnh nhân nhập viện do viêm phổi liên quan đến chăm sóc sức khỏe tại 6 Trung tâm y tế Cựu chiến binh.
Can thiệp: Mỗi hồ sơ bệnh nhân được phân loại như tiếp nhận cách trị liệu giống như hướng dẫn (GST), các thành phần thuốc điều trị giống như hướng dẫn chống tụ cầu vàng kháng methicillin hoặc chống pseudomonas, hoặc điều trị viêm phổi không do chăm sóc y tế (non-HCAP) khác được bắt đầu trong vòng 48 giờ nhập viện. Mối liên hệ giữa tỷ lệ tử vong 30 ngày với điều trị giống như hướng dẫn được ước tính với một mô hình hồi quy đa biến gồm điều trị giống hướng dẫn, xu hướng tiếp nhận điều trị giống hướng dẫn, xác suất khỏi bệnh viêm phổi do một vi khuẩn được nuôi cấy đề kháng với kháng sinh truyền thống được sử dụng để điều trị viêm phổi cộng đồng (viêm phổi cộng đồng kháng thuốc), và một điều trị giống như hướng dẫn bằng sự tương tác xác suất viêm phổi cộng đồng kháng thuốc.
Các biện pháp chính: Tỷ suất chênh và khoảng tin cậy 95% [OR (95% CI)] của tỷ lệ tử vong 30 ngày đối với bệnh nhân được điều trị với cách điều trị như hướng dẫn và xác suất được dự đoán khỏi bệnh của một viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn đề kháng, và tỷ số của tỷ suất chênh [ROR (95% CI)] đối với điều trị bằng sự tương tác xác suất của viêm phổi cộng đồng kháng thuốc.
Kết quả chính: Đơn thuốc về cách điều trị như được hướng dẫn có liên quan tăng tỷ suất chênh tử vong 30 ngày [OR = 2,11 (1,11 - 4,04), P = 0,02) cũng như xác suất dự đoán khỏi bệnh của một viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn đề kháng [OR = 1,67 (1,26 – 2,20), P < 0,001 đối với một sự tăng 25% trong xác suất]. Một sự tương tác giữa xác suất dự đoán về sự khỏi bệnh của một viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn đề kháng và một đơn thuốc giống như được hướng dẫn đã chứng minh tỷ lệ tử vong thấp hơn với đơn thuốc như được hướng dẫn tại xác suất cao của viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn đề kháng [ROR = 0,71 ( ≤ 1,00) đối với một sự tăng 25% trong xác suất, P = 0,05].
Kết luận: Đối với bệnh nhân viêm phổi do chăm sóc y tế với xác suất cao của viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn kháng thuốc, dùng kháng sinh điều trị theo hướng dẫn được kết hợp với tỷ lệ tử vong thấp hơn. Sự cân nhắc về mức độ của nguy cơ cụ thể cho bệnh nhân mắc viêm phổi cộng đồng do vi khuẩn kháng thuốc nên được xem xét khi lựa chọn để điều trị viêm phổi do chăm sóc y tế.
Tài liệu tham khảo
(Karl J. Madaras-Kelly, Richard E. Remington, Kevin L. Sloan and Vincent S. Fan. (2012).Guideline-Based Antibiotics and Mortality in Healthcare-Associated Pneumonia. Journal of General Internal Medicine. DOI: 10.1007/s11606-012-2011-y)