Trang chủ / Tin tức / Viêm màng não do tụ cầu vàng: một loạt trường hợp và điểm lại y văn

Viêm màng não do tụ cầu vàng: một loạt trường hợp và điểm lại y văn

30/07/2012 16:07     4,448      9,036     

Viêm màng não do tụ cầu vàng là một bệnh đang có nhiều thách thức và rất ít được biết đến về dịch tễ học của nó. Các tài liệu hướng dẫn quản lý về bệnh này cũng chưa hình thành được.

Chúng tôi hồi cứu lại hệ thống thông tin lâm sàng, dữ liệu vi khuẩn học, và kết cục của tất cả 33 bệnh nhân với kết quả cấy dịch não tuỷ (+) với tụ cầu vàng được phát hiện tại một bệnh viện giảng dạy ở thành phố từ 1999 - 2008. Điện di trên gel trong một trường xung động (Pulsed-field gel electrophoresis: PFGE) và phản ứng chuỗi polymerase đối với chuỗi chromosome mec của tụ cầu vàng (SCCmec), định type yếu tố điều hoà gene phụ (accessory gene regulator (agr) typing), và nhiều điểm Panton-Valentine leukocidin (PVL) được thực hiện để phân lập trên các chủng tụ cầu vàng kháng methicillin khởi sự vào năm 2005.

Tụ cầu vàng gây bệnh ở 12 (36%) trường hợp sau mổ và 21 (64%) trường hợp viêm màng não do vi khuẩn lan vào qua đường máu. Các chủng tụ cầu vàng kháng methicillin được phân lập trong 6 (50%) trường hợp sau mổ và 10 (48%) trường hợp vào đường máu. Mười hai (12) (75%) trong số 16 trường hợp nhiễm tụ cầu vàng kháng methicillin xảy ra 5 năm cuối của nghiên cứu này. Viêm màng não tụ cầu vàng vào theo đường máu được kết hợp với tuổi của bệnh nhân già hơn (p = 0,04), dùng thuốc tiêm (p < 0,01), nhiễm ở cộng đồng (p < 0.01), có bệnh kèm theo trước (p = 0,01), nhiễm tụ cầu ngoài hệ thần kinh trung ương (p = 0,01), rối loạn tình trạng tâm thần (p = 0,02), sốt (p = 0,01), sốc nhiễm khuẩn (p = 0,03), và vãng khuẩn máu (p < 0,01). Phân tích 9 chủng tụ cầu vàng kháng methicillin đã cho thấy 3 type của PFGE: 3 USA100 (33%), 5 USA300 (56%), và 1 USAnot100-1100 (11%). Đối với định type SCCmec, có 2 ca (22%) type II và 7 ca (78%) type IV. Tất cả các dòng USA300 là dòng SCCmec IVa. Đối với định type agr, có 5 ca (56%) type I và 4 ca (44%) type II. Ba chủng (33%) dương tính đối với gene PVL và là dòng USA300. Hầu hết bệnh nhân tiếp nhận nafcillin hoặc vancomycin có kèm hoặc không rifampin hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole đối với một thời kỳ trung bình 17 ngày (phạm vi, 1-42 ngày). Tỷ lệ tử vong toàn bộ là 36%, và nó được kết hợp với nhiễm mắc phải ở cộng đồng (p = 0.02).

Viêm màng não do tụ cầu sau phẩu thuật và vào qua đường máu khác nhau về hội chứng lâm sàng. Viêm màng não do tụ cầu vàng vào đường máu có những hệ quả tàn phá của hội chứng lâm sàng và tăng tỷ lệ tử vong, đặc biệt nếu nhiễm chủng này từ cộng đồng. Ở nghiên cứu này, tỷ lệ mới mắc viêm màng não do tụ cầu vàng kháng methicillin tăng lên vào 5 năm cuối. Điều trị chọn lựa là nafcillin đối với các chủng nhạy với methicillin và vancomycin đối với các chủng đề kháng methicillin. Thêm trimethoprim/sulfamethoxazole hoặc rifampin với vancomycin được yêu cầu trong các trường hợp nặng và nhiễm tụ cầu vàng kháng methicillin. Linezolid cũng là một chọn lựa tốt do tính ngấm tốt vào nước não tuỷ của nó và báo cáo các ca thích hợp. Tỷ lệ tử vong ở các ca bệnh mắc phải ở cộng đồng thì cao hơn.

 

(Theo Medicine: March 2010 - Volume 89 - Issue 2 - pp 117-125. doi: 10.1097/MD.0b013e3181d5453d
Aguilar, Javier; Urday-Cornejo, Varinia; Donabedian, Susan; Perri, Mary MT; Tibbetts, Robert; Zervos, Marcus.)

Bs. Phan Quận

 

Facebook a Comment