Trang chủ / Tin tức / Vaniprevir với peginterferon alfa-2a và ribavirin trong điều trị bệnh nhân viêm gan C mãn tính chưa được điều trị trước – một nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn 2

Vaniprevir với peginterferon alfa-2a và ribavirin trong điều trị bệnh nhân viêm gan C mãn tính chưa được điều trị trước – một nghiên cứu ngẫu nhiên giai đoạn 2

01/08/2012 14:37     9,502      11,961     

Vaniprevir (MK-7009) là một thuốc có cấu trúc vòng lớn (macrocyclic) ức chế protease NS3/4A của HCV. Mục đích của nghiên cứu giai đoạn 2 hiện nay là kiểm tra tỷ lệ đáp ứng virus với vaniprevir kết hợp với interferon (PEG-IFN) alfa-2a và ribavirin. 

 

Trong nghiên cứu mù đôi, kiểm soát – placebo, liều thuốc khác nhau, dùng cho bệnh nhân nhiễm HCV kiểu gen 1 chưa từng được điều trị trước (n = 94) được chọn ngẫu nhiên để nhận PEG-IFN alfa-2a (180 µg/tuần) và ribavirin được cho biết rõ (1.000-1.200 mg/ngày) kết hợp với placebo được làm mù hoặc vaniprevir (300 mg : 2 lần/ngày, 600 mg : 2 lần/ngày, 600 mg 1 lần/ngày, hoặc 800 mg 1 lần/ngày) trong 28 ngày, và sau đó PEG-IFN alfa-2a và ribavirin được biết rõ, cho thêm 44 tuần. Hiệu quả chính điểm kết thúc là đáp ứng virus nhanh (RVR), được xác định là không thể phát hiện được HCV RNA trong huyết tương vào tuần thứ 4. Trên tất cả các liều thuốc, vaniprevir được kết hợp với một sự giảm nhanh tải lượng virus 2 giai đoạn, với nồng độ HCV RNA khoảng 3 log10 IU/mL thấp hơn ở bệnh nhân được điều trị với vaniprevir so với người nhận placebo.

Tỷ lệ RVR cao hơn đáng kể trong mỗi nhóm liều vaniprevir so với chế độ thuốc đối chứng (68,8% - 83,3% so với 5,6%, P <0,001 đối với tất cả các so sánh).

Có số lượng cao hơn, nhưng không có ý nghĩa thống kê, tỉ lệ đáp ứng virus học sớm và bền vững với vaniprevir so với placebo. Cơ sở đề kháng có thể dự đoán với các biến thể là R155 và D168 được phát hiện trong một số nhỏ bệnh nhân.

Trong nghiên cứu này đã chứng minh là không có mối quan hệ giữa kiểu gen IL28B và kết quả điều trị. Tỷ lệ mới mắc tác dụng phụ nói chung có thể so sánh giữa vaniprevir và người nhận placebo, tuy nhiên, ói mửa xuất hiện phổ biến hơn ở liều vaniprevir cao hơn.

Kết luận: Vaniprevir là một thuốc ức chế protease HCV mạnh với một tình trạng đềkháng có thể dự đoán và sự an toàn thích hợp là phù hợp với việc dùng 1 lần hoặc 2 lần mỗi ngày. (HEPATOLOGY 2012.)

 

Tài liệu tham khảo

Michael P Manns, Edward Gane, Maribel Rodriguez-Torres, Albrecht Stoehr, Chau-Ting Yeh, Patrick Marcellin, Richard T. Wiedmann, Peggy M. Hwang, Luzelena Caro, Richard J.O. Barnard, Andrew W. Lee.(2012). Vaniprevir with peginterferon alfa-2a and ribavirin in treatment-naive patients with chronic hepatitis C – a randomized phase 2 study.Hepatology, DOI: 10.1002/hep.25743

BS. Phan Quận- Văn phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam

Facebook a Comment