Cúm (influenza) là một bệnh nhiễm vi-rút đường hô hấp cấp tính gây ra bởi vi-rút cúm (influenza virus). Người ta thừa nhận rằng đại dịch cúm từ lâu đã là một phần của lịch sử loài người. Các báo cáo đã mô tả các đợt bệnh hô hấp giống cúm từ năm 412 TCN. Vi-rút cúm gây ra các vụ dịch sốt đường hô hấp tái phát một đến ba năm một lần. Ngoài các vụ dịch hàng năm, vi-rút cúm A là nguyên nhân gây ra bốn trận đại dịch từ năm 1918 đến năm 2009: “Cúm Tây Ban Nha” 1918 (H1N1), “Cúm Châu Á” 1957 (H2N2), “Cúm HongKong” 1968 (H3N2) và cúm lợn 2009 (A[H1N1]pdm09).
Vi-rút cúm thuộc họ Orthomyxoviridae, bao gồm 4 tuýp (type): tuýp A, tuýp B và tuýp C có thể gây bệnh trên người và tuýp D chủ yếu ảnh hưởng đến gia súc và được biết là không gây bệnh cho người. Trong khi vi-rút cúm C gây bệnh lẻ tẻ ở người và lợn, vi-rút cúm A và B theo mùa lưu hành ở người trên toàn thế giới. Các vụ dịch cúm mùa (seasonal influenza) hàng năm ước tính gây ra 3 – 5 triệu ca bệnh nặng và khoảng 290 000 – 650 000 ca tử vong.
Con người cũng có thể bị nhiễm vi-rút cúm A truyền từ động vật (zoonotic influenza), như vi-rút cúm gia cầm A (avian influenza A virus) phân tuýp (subtype) A (H5N1), A (H5N6), A (H7N9), A (H7N7) và A (H9N2) và vi-rút cúm lợn A (swine influenza A virus) phân tuýp A (H1N1), A (H1N2) và A (H3N2).
Cúm gia cầm là gì?
Cúm gia cầm (avian influenza hay bird flu) gây ra bởi các chủng cúm A, thường chỉ lây nhiễm cho các loài chim hoang dã và gia cầm nuôi, một số chủng trong số đó có thể lây nhiễm cho người như H5, H7 và H9. Hầu hết các trường hợp cúm gia cầm ở người là do các chủng Châu Á H5N1 và H7N9 gây ra.
Nhiễm cúm gia cầm thường không có triệu chứng ở chim hoang dã nhưng có thể gây tỷ lệ chết rất cao ở gia cầm nuôi. Ở người, tỷ lệ tử vong do nhiễm các phân tuýp A (H5N1), A (H5N6) và A (H7N9) cao hơn nhiều so với nhiễm vi-rút cúm mùa A và B, trong khi hầu hết các trường hợp nhiễm cúm A (H7N7) và A (H9N2) thường gây bệnh nhẹ hơn.
Những trường hợp nhiễm H5N1 ở người đầu tiên được phát hiện ở Hồng Kông năm 1997; nhiều bệnh nhân có triệu chứng hô hấp nặng, tỷ lệ tử vong cao. Đến năm 2003 và 2004, các ca nhiễm H5N1 ở người lại xuất hiện và các trường hợp lẻ tẻ tiếp tục được báo cáo, chủ yếu ở châu Á và Trung Đông. Kể từ năm 2014, các ca nhiễm H5N6 ở người đã được ghi nhận; tất cả đều xảy ra ở Khu vực Tây Thái Bình Dương, phần lớn ở Trung Quốc. Vào đầu năm 2013, một đợt bùng phát dịch cúm gia cầm H7N9 trên diện rộng ở người đã xảy ra ở một số tỉnh phía đông nam Trung Quốc với một phần ba trường hợp tử vong, chủ yếu ở người cao tuổi. Các chủng cúm gia cầm khác xảy ra không thường xuyên như H5N8, H7N3, H7N7, H7N4 và H9N2.
Virus cúm gia cầm tồn tại như thế nào trong tự nhiên?
Vi-rút cúm gia cầm A đã được phân lập từ hơn 100 loài chim thủy sinh hoang dã khác nhau trên khắp thế giới như vịt, ngỗng, thiên nga, mòng biển, nhạn biển, cò, chim cát. Các loài này có thể bị nhiễm vi-rút trong đường ruột và đường hô hấp và thải vi rút qua nước bọt, dịch tiết mũi và phân. Các loài gia cầm nuôi bị lây nhiễm vi-rút cúm thông qua các nguồn bệnh tự nhiên này.
Vi-rút cúm gia cầm được phân thành hai loại: vi-rút cúm gia cầm có độc lực thấp (LPAI) và vi-rút cúm gia cầm độc lực cao (HPAI). Trong khi các vi-rút cúm gia cầm có độc lực thấp gây bệnh không có biểu hiện hoặc chỉ biểu hiện nhẹ ở gia cầm như xù lông và giảm sản lượng trứng, vi-rút cúm gia cầm có độc lực cao gây bệnh nặng và tỷ lệ chết cao ở gia cầm mắc bệnh. Gà nhiễm vi-rút HPAI A (H5) hoặc A (H7) có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan nội tạng với tỷ lệ chết lên đến 90% đến 100%, thường trong vòng 48 giờ.
Cúm gia cầm lây sang người bằng cách nào?
Hầu hết các trường hợp con người nhiễm cúm gia cầm là do lây truyền từ động vật (điển hình là gia cầm) do hít phải hoặc tiếp xúc trực tiếp với chất tiết (nước bọt, chất nhầy hoặc phân) của động vât bị nhiễm bệnh.
Tỷ lệ lây nhiễm trực tiếp từ người sang người rất hạn chế, tuy nhiên vi-rút cúm có khả năng đột biến gen nhanh chóng, do đó có thể dẫn đến có khả năng lây nhiễm từ người sang người, gây ra đại dịch cúm.
Hình. Sự lây truyền các chủng vi-rút cúm A giữa các loài
(Joseph U. et al. Influenza Other Respir Viruses. 2017;11(1):74-84)
Cách nhận biết mắc bệnh cúm gia cầm
Biểu hiện của bệnh cúm gia cầm cũng giống như bệnh cúm mùa; tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong có xu hướng cao hơn, mặc dù còn tùy thuộc vào chủng vi-rút.
Người nhiễm cúm gia cầm có thể không có triệu chứng đến có các biểu hiện nhẹ của triệu chứng cúm (như sốt, ho, chảy mũi, nghẹt mũi, đau họng, đau mỏi cơ, đau đầu, viêm kết mạc). Các dấu hiệu ít phổ biến hơn bao gồm tiêu chảy, buồn nôn, nôn hoặc co giật. Các biểu hiện nặng hơn có thể gặp như khó thở hoặc viêm phổi, tiến triển suy hô hấp với tỷ lệ tử vong cao.
Làm gì khi bị cúm gia cầm?
Khi có biểu hiện lâm sàng, kèm theo tiền sử tiếp xúc với người đang mắc cúm gia cầm hoặc tiếp xúc với gia cầm trong khu vực đang có dịch, kể cả đi du lịch đến các vùng lưu hành cúm gia cầm, cần nghi ngờ nhiễm bệnh và phải đến ngay cơ sở y tế có khả năng xét nghiệm chẩn đoán cúm để được khám và chẩn đoán kịp thời.
Oseltamivir (Tamiflu) là thuốc đặc hiệu để điều trị cúm gia cầm, cần được dùng càng sớm càng tốt. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2022) khuyến cáo không sử dụng corticosteroid, liệu pháp miễn dịch thụ động hay kháng sinh nhóm macrolid trong các trường hợp cúm. Việc sử dụng kháng sinh khi bệnh nhân không có tình trạng bội nhiễm vi khuẩn cũng không cần thiết và làm gia tăng tình trạng kháng thuốc kháng sinh. Vì vậy, người bệnh không tự ý mua thuốc uống khi có các biểu hiện nhiễm cúm mà cần đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị đúng.
Các điều trị bổ trợ cơ bản trong điều trị cúm mà người dân có thể tự thực hiện tại nhà như nghỉ ngơi, cung cấp đầy đủ nước và dinh dưỡng, hạ sốt bằng thuốc hạ sốt paracetamol khi sốt trên 38,5oC, cân bằng dịch và điện giải bằng cách uống oresol.
Cách dự phòng bệnh cúm gia cầm
Các chiến dịch tiêm phòng vắc-xin cho gia cầm đối với vi-rút cúm H5 và H7 giúp ngăn chặn chủ động sự lây lan vi-rút cúm từ các loài chim hoang dã tự nhiên sang gia cầm. Khi xác định có vi-rút cúm xuất hiện ở gia cầm, cần tiêu diệt đàn gia cầm bị nhiễm bệnh để tránh lây lan.
Tránh tiếp xúc không được bảo vệ với các loài chim hoang dã, kể cả khi trông khỏe mạnh và các loài gia cầm có biểu hiện ốm yếu hoặc chết, nhất là không chạm vào các bề mặt có thể bị nhiễm nước bọt, chất nhầy hoặc phân của chúng. Khi phải tiếp xúc với gia cầm có biểu hiện bệnh, cần sử dụng trang phục bảo hộ (như găng tay, khẩu trang y tế và kính bảo vệ mắt) và rửa tay bằng xà phòng và nước sau khi tiếp xúc. Nhân viên y tế tiếp xúc với người bệnh cũng cần sử dụng trang phục bảo hộ, với các thủ thuật can thiệp hoặc tạo khí dung cần dùng khẩu trạng N95.
Khi nghi ngờ nhiễm bệnh, cần cách ly tránh tiếp xúc với người thân, đeo khẩu trang y tế và đến cơ sở y tế để được chẩn đoán kịp thời.
Bác sĩ Phan Văn Mạnh
Khoa Cấp Cứu, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH