Vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu này được thực hiện để so sánh hiệu quả, tính an toàn, và đề kháng của clevudine (CLV) và entecavir (ETV) sau một thời kỳ điều trị 2 năm.
Phương pháp: Có 108 bệnh nhân người Hàn Quốc từ nghiên cứu 48 tuần trước được theo dõi về điều trị liên tục cho đến 2 năm và được giám sát nồng độ HBV DNA, sự chuyển đổi huyết thanh HBeAg, ALT huyết thanh, sự xuất hiện chủng HBV đột biến kháng thuốc, và các biến cố ngoại ý liên quan đến thuốc điều trị.
Kết quả: Một đáp ứng virus học hoàn toàn trong thời gian điều trị 2 năm xảy ra ở 68,0% ở nhóm CLV và 84,5% ở nhóm ETV (p = 0,043). Tỷ lệ phần trăm tích lũy bệnh nhân có đáp ứng virus bền vững 2 năm là 54,0 và 77,6% tương ứng với nhóm CLV và nhóm ETV (p = 0,010). Bùng phát virus học đã xảy ra ở 12 bệnh nhân thuộc nhóm CLV; tuy nhiên, không ai trong nhóm ETV (p <0,001). Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh HBeAg không khác nhau giữa hai nhóm. Ở những bệnh nhân duy trì bền vững đáp ứng virus học sau 2 năm, giảm trung bình trong nồng độ HBsAg là - 0,24 và - 0,06 log IU/mL tương ứng với nhóm CLV và nhóm ETV (p > 0,05). Bệnh lý cơ lâm sàng xảy ra ở 7 bệnh nhân thuộc nhóm CLV, tuy nhiên, điều này không gặp ở nhóm ETV (p = 0,004).
Kết luận: ETV liên kết với một tỷ lệ đáp ứng virus học cao hơn đáng kể so với CLV sau 2 năm. ETV cao hơn CLV dưới dạng đề kháng thuốc và phát triển của bệnh lý cơ lâm sàng. Nghiên cứu sâu hơn để xem liệu đặc tính duy nhất của CLV để giảm nồng độ HBsAg kết hợp với sự loại bỏ các ccc-DNA từ tế bào gan và sự thuyên giảm của bệnh hay không là cần thiết.
Tài liệu tham khảo
Geum-Youn Gwak, Sung June Eo, Su Rin Shin, Moon Seok Choi, Joon Hyoek Lee, Kwang Cheol Koh, Seung Woon Paikand Byung Chul Yoo. (2012). A comparison of clevudine and entecavir for treatment-naïve patients with chronic hepatitis B: results after 2 years of treatment. Hepatology International, 2012, DOI: 10.1007/s12072-012-9368-1
( BS. Phan Quận- Văn phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam)